Không hiểu vì sao mỗi dịp viết về Đức Thọ tôi đều muốn được
đến ngồi trên bến Tam Soa hoặc giả sẽ mường tượng về nơi ấy bằng
con đường riêng của lòng mình. Bởi ở riêng nơi đó tôi mới có thể cảm
nhận được tất cả những vỉa tầng văn hóa, những vẻ đẹp truyền đời của
cả một vùng Đức Thọ mênh mông. Tam Soa – chỉ một ngã ba sông thôi mà
gọi lên rất nhiều lớp tầng văn hóa của một vùng đất, khiến người
đến, người đi đều nhiều vương vấn, vấn vương…
Đua thuyền truyền thống trên Sông La
Dường như dòng chảy hiền hòa và mát ngọt của nơi khởi đầu dòng La
ấy cất giấu tất cả những vẻ đẹp tinh túy nhất suốt chiều dài lịch
sử của vùng đất này…Chẳng những thế mà các làng mạc ven bến Tam Soa
đều trù phú và phát triển sớm cả về văn hoá lẫn kinh tế, đặc biệt vùng
địa linh ấy đã dâng tặng cho Tổ quốc rất nhiều nhân kiệt. Trong
chiều dài 180 năm thành lập tỉnh đến nay, khắp các vùng quê Đức Thọ,
đâu đâu cũng xuất hiện những hiền tài ở mọi lĩnh vực làm rạng danh
quê hương, xứ sở, trong đó nổi tiếng nhất là làng Tùng Ảnh với hàng
trăm vị tiến sỹ.
Từ trước khi vua Minh Mệnh thực hiện việc
chia cắt lại địa giới hành chính dẫn tới sự ra đời của tỉnh Hà Tĩnh,
Đức Thọ đã nổi danh với rất nhiều tác giả nho học như: Nguyễn Biểu
(Yên Hồ), Phan Phúc Cẩn, Bùi Dương Lịch (ở Tùng Ảnh)… với những tác
phẩm nổi tiếng truyền lại đến ngày nay. Sau 1831, người ta biết
nhiều hơn đến làng Đông Thái và đất học Tùng Ảnh qua người con kiệt
xuất là Đình nguyên Tiến sỹ Phan Đình Phùng. Ở ông hội tụ nhiều tài
năng, không chỉ giỏi văn chương chữ nghĩa mà còn là một lãnh tụ có tài
lương đống. Phan Đình Phùng sinh năm 1847 tại làng Đông Thái, huyện La
Sơn (nay là xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ) trong một gia đình khoa bảng có
tiếng tăm. Từ nhỏ ông đã có chí lớn. Năm 1876, Phan Đình Phùng đỗ cử
nhân. Năm sau (1877), ông thi đậu đình nguyên tiến sỹ, được bổ làm tri
huyện Yên Khánh (tỉnh Ninh Bình). Do tính tình cương trực, can đảm, đời
làm quan của ông trải qua nhiều sóng gió. Năm 1885, hưởng ứng chiếu
Cần Vương của vua Hàm Nghi, Phan Đình Phùng với tầm ảnh hưởng của mình
đã đứng ra chiêu tập lực lượng từ khắp các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà
Tĩnh, Quảng Bình, để chống ngoại xâm. Phan Đình Phùng được nhà vua phong
chức tán lý quân vụ, lãnh đạo nghĩa quân xây dựng căn cứ tại hai huyện
Hương Sơn, Hương Khê, thuộc Hà Tĩnh. Suốt mười năm (1885 - 1896), bất
chấp mọi hiểm nguy, gian khổ, cuộc khởi nghĩa do Phan Đình Phùng lãnh
đạo đã giao chiến với Pháp nhiều trận, và đã gây cho đối phương nhiều
tổn thất nặng nề, tiêu biểu nhất là trận Vụ Quang vào năm 1894. Năm
1895, Phan Đình Phùng qua đời do bị thương trong một trận đánh, để
lại nỗi đau đớn khôn nguôi trong lòng nghĩa quân khắp vùng Thanh –
Nghệ – Tĩnh và Quảng Bình.
Mộ Đình nguyên Tiến sỹ Phan Đình Phùng, tại xã Tùng ảnh
Cùng thời với Phan Đình Phùng, ở làng Trung Lễ có người con ưu tú Lê
Ninh (1857 – 1887), với tấm lòng yêu nước nồng nàn, Lê Ninh được coi
là người Hà Tĩnh đầu tiên xướng nghĩa Cần Vương. Về sau, ông gia
nhập đội quân của Phan Đình Phùng và trở thành một tướng lĩnh Cần
Vương anh dũng, kiên cường. Thời kỳ này, ở Đức Thọ còn có nhiều nhân
vật nho sỹ nổi trội như Đậu Quang Lĩnh, Mai Lão Bạng, Phan Điện, Lê
Văn Huân v.v… Họ đều là những ông đồ Nghệ điển hình, đau đáu một
lòng với nước non và đã để lại cho đời nhiều tác phẩm thể hiện tấm
lòng ấy như: Cảm tác (Đậu Quang Lĩnh), Lão Bạng phổ khuyến thi (Mai
Lão Bạng), thơ Phan Điện v.v…
Trong thời kỳ tân học, Đức Thọ
cũng có nhiều tác giả nổi tiếng ở mọi lĩnh vực, đóng góp rất nhiều
cho thành tựu chung của đất nước. Đầu tiên phải kể đến Lê Thước
(1891 – 1976) – người làng Trung Lễ. Ông là nhà nghiên cứu văn học, sử
học xuất sắc được nhiều thế hệ trí thức tôn là bậc thầy. Những tác
phẩm của ông như: Truyện cụ Nguyễn Du, Sự nghiệp và thi văn của Uy
viễn tướng công Nguyễn Công Trứ, Nhận xét một số di tích và hiện
vật về thời Tây Sơn, làng Trung Lễ trong phong trào chống Pháp v.v…
đã đem đến cho độc giả những kiến thức mới và cái nhìn riêng về
những tác giả, sự kiện lịch sử. Nổi tiếng trong làng văn học Việt
Nam thời kỳ này là Hoàng Ngọc Phách (1896 – 1973), người làng Đông Thái
(Tùng Ảnh) với tác phẩm “Tố Tâm”. Tiểu thuyết này được đánh giá là
bước chuyển mới của văn chương Việt Nam, đưa văn xuôi từ thời kỳ mang
tình biền ngẫu sang tự sự. Xuôi về gần cuối dòng La, làng Đức Nhân
lại có tác giả văn học nổi tiếng Phạm Khắc Hòe (1902 – 1996) với các
tác phẩm: “Quà chiến khu”, “Ơn Đảng, ơn Bác muôn đời”, “ Từ triều
đình Huế đến chiến khu Việt Bắc”… Các tác phẩm ấy được giới văn
học nhận định là đã đưa đến góc nhìn mới cho thấy những khía cạnh
mới, những phương diện mới của cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại. Thời
kỳ này, đất học Tùng Ảnh còn cống hiến cho tổ quốc người con tuấn
kiệt Trần Phú - vị Tổng bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Mộ Trần Phú giờ được an táng trên đồi Quần Hội hướng ra bến
Tam Soa thanh bình, yên ả.
Quần thể Khu mộ đồng chí Trần Phú- Cố Tổng bí thư đầu tiên của Đảng, tại xã Tùng ảnh
Dường
như dòng La hiền hòa thơ mộng đã kết hợp với phong thổ vùng đất nó
đi qua mà kiến tạo nên những tâm hồn lãng mạn, đam mê và cống hiến
hết mình cho nền văn hóa Việt Nam. Bên kia bến Tam Soa, làng Trường
Xuân - xã Trường Sơn có nghệ nhân tuồng bộ Lê Hanh (1907 – 1988)
xuất sắc. Thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám, Lê Hanh đã xây dựng phường
tuồng Trường Xuân. Sau năm 1945, ông tiếp tục công việc đào tạo
diễn viên, xây dựng nhiều đội kịch, đội tuồng trong huyện. Ông
cũng là người có công sưu tầm và phổ biến nhiều tác phẩm, tư liệu
văn nghệ dân gian Hà Tĩnh. Người mà tiếng tăm vang ra cả ngoài biên
giới Việt Nam là nghệ sỹ điêu khắc Điềm Phùng Thị (ở Bùi Xá). Bà nổi
tiếng với những tác phẩm điêu khắc được sáng tác từ “7 ký tự”, được
dư luận châu Âu ngợi ca giá trị thần diệu của nó và được trưng bày
triển lãm ở những nền văn hóa nổi tiếng thế giới như: Pháp, Ý, Đức,
Đan Mạch, Thụy Sỹ. Bà là người Việt Nam duy nhất (cho đến năm 1991)
được ghi tên trong từ điển Larousse “Nghệ thuật thế kỷ XX – Từ điển
tranh tượng” và được bầu làm viện sỹ thông tấn Viện Hàn lâm khoa
học, văn học và nghệ thuật châu Âu. Nổi tiếng trong lĩnh vực nghệ
thuật còn có Tiến sỹ sân khấu Phạm Thị Thành – là con gái của tác giả
văn học Phạm Đình Hòe. Với việc viết kịch bản, đạo diễn hàng trăm vở
diễn nổi tiếng và công lao phát hiện đào tạo đội ngũ diễn viên
tài năng cho sân khấu Việt Nam hiện đại, Phạm Thị Thành được coi là
người mang ánh hào quang cho sân khấu Việt. Ở tuổi “cổ lai hy” nhưng
bà vẫn miệt mài nghiên cứu và đạo diễn nhiều vở kịch quan trọng. Bà
là niềm tự hào của nhân dân Đức Nhân, của nền sân khấu Việt Nam.
Tiếp nối truyền thống vẻ vang đó, ở Đức Thọ còn có tác giả Phan
Lương Hảo cùng 2 người con là Phan Thư Hiền và Phan Trung Hiếu (người
xã Bùi Xá) đều là những cây bút chủ chốt của làng VHNT Hà Tĩnh với
nhiều vở kịch, tác phẩm phản ánh hiện thực đời sống một cách chân
thực mà đầy tính nghệ thuật.
Ngoài ra, ở những lĩnh vực khoa
học khác, Đức Thọ cũng có những người con tài ba như giáo sư ngành môi
trường Võ Quý (Yên Hồ), luật sư Phan Anh (Tùng Ảnh), Giáo sư ngành văn
học Hoàng Ngọc Hiến (Tùng Ảnh), giáo sư y học Phạm Kim (Tùng Ảnh),
nhạc sỹ Tân Huyền, nhạc sỹ Phan Trần Bảng (Tùng Ảnh), nhà địa phương
học Thái Kim Đỉnh (Đức Châu)…
Có thể nói, trong suốt
chiều dài hơn 180 năm lịch sử Hà Tĩnh, Đức Thọ đã đóng góp không ngừng
cho quê hương, cho đất nước rất nhiều những người con kiệt xuất. Họ
dù ở lĩnh vực nào, mức độ ảnh hưởng rộng hay hẹp… cũng đều đã mang
lại cho quê hương đất nước những giá trị có ý nghĩa không hề nhỏ. Kế
thừa truyền thống quý báu đó, ngày nay bên dòng La thanh bình ấy
những thế hệ nối tiếp lại tiếp tục học tập, nghiên cứu và cống
hiến tài năng cho Tổ quốc. Góp phần tô thắm tên tuổi Hà Tĩnh trên
bản đồ danh nhân đất Việt.